Phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ Nhặt

Dàn ý, bài văn mẫu phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt của Kim Lân dưới đây là những cách tiếp cận tác phẩm vô cùng mới mẻ, độc đáo, được chọn lọc dành cho học sinh lớp 12. Sau đây hãy cùng tìm hiểu nhé!

1. Dàn ý bài phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt ngắn gọn nhất

1.1. Giới thiệu

– Truyện ngắn Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của Kim Lân và của văn xuôi sau kháng chiến chống Pháp. Thành công của truyện thể hiện ở chỗ: để phản ánh số phận bi đát của người nông dân trong nạn đói năm 1945 và khát vọng sống mãnh liệt với những phẩm chất tốt đẹp, Kim Lân đã chọn con người là người cai nghiện. Độc đáo: tình yêu bù đắp cho vợ.

– Câu chuyện người vợ hờ của ông Tràng dưới ngòi bút miêu tả của Kim Lân đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân văn của những người dân đói, đồng thời làm cho ý đồ tư duy tưởng tượng của nhà văn được thể hiện trọn vẹn. . Thành công đó là nhờ tài năng nghệ thuật của Kim Lân trong sự phát triển của sự kiện.

1.2. Phân tích

a. Mục đích của Kim Lân khi viết Vợ Nhặt. Viết về cái đói, nhưng dụng ý của nhà văn không phải là phản ánh bi kịch của cái đói, cái khát và tất cả sự lầm lì bất lực của con người đã gây ra cái đói. Với Kim Lân, “Cái đói vừa chua xót, vừa xót xa, đồng thời cũng làm lóe lên một tia đạo đức, danh dự (nhà văn nói về tác phẩm). Truyện Vợ Nhặt khám phá những khía cạnh cuối cùng của tấn bi kịch ấy.

b. Trạng thái chọn lọc: Khi nạn đói hoành hành, cái đói và cái chết đang bao trùm, bủa vây cuộc sống của con người, họ phải lo kiếm cái ăn để bảo toàn mạng sống thì Tràng – một thanh niên nghèo của xóm – quay sang nhìn một người vợ. Tràng đã có vợ và có gia đình riêng vào đúng lúc khát khao hạnh phúc không nên có vì nó khó tồn tại. Thật vậy, vấn đề vợ của Tràng là một vấn đề tâm lý – nó có ý nghĩa như một phép thử để đo lường phẩm chất con người ở con người. Chọn tình huống này, hẳn Kim Lân phải rất táo bạo và phải có đủ sự tinh tế cũng như khả năng nhìn thấu thế sự thì mới có thể lý giải, triển khai và xử lý theo đúng ý đồ, kế hoạch ban đầu.

c. Những đặc sắc nghệ thuật của Kim Lân khi triển khai tình huống:

*  Đặc biệt chú ý khai thác các quan hệ trong bức tranh đời sống:

– Sự đối lập giữa cảnh đói khát, ám ảnh cái chết và khát vọng sống, hạnh phúc của con người:

+ Nhà văn miêu tả khá kĩ cảnh xảy ra nạn đói, nhất là không gian năm đói với các phương diện âm thanh, mùi vị, hình ảnh, không khí tạo cảm giác lạnh lẽo, đau đớn ghê gớm, trước cái chết. đang ngự trị. chi phối mọi mặt của đời sống. Trên nền đó, sự tồn tại của con người trở nên vô cùng rùng rợn: có người chết đói, có người sống nhưng vật vờ như ma. Lúc này sự sống trở nên yếu ớt khi bị cái chết rượt đuổi. Người ta dễ tin rằng nếu đúng như vậy, sự sống sẽ ngủ yên trong một không gian đặc biệt sặc mùi chết chóc. Trong không khí đó, cần phải có một sự kiện thật lạ, thật độc đáo để làm phiêu lưu và đảo ngược xu thế đang chìm xuống: đó là sự kiện anh Tràng nhặt được vợ. Kim Lân đã cho thấy đúng là sự lạ lùng ấy đã gây xôn xao cả xóm một thời, và hơn cả sự huyên náo ấy là cái dư vị mà nó tạo nên “một cái gì lạ lùng mát rượi đang ập đến trong niềm mong mỏi, đêm ngày của họ”. mạng sống.”

+ Sự đối lập không chỉ ở bên ngoài mà còn tồn tại trong tâm hồn nhân vật. Ngòi bút tâm lí của Kim Lân đã len lỏi đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để phát hiện và miêu tả những trạng thái tâm lí đối lập ở mỗi con người: thậm chí không biết tự lo cho mình. đeo được”. và giấc ngủ chập chờn của một người đàn ông chưa bao giờ được hạnh phúc khi sống trong một gia đình toàn “chậc, chậc chậc”, ở bà Tư là sự ngậm ngùi bởi thân phận lay lắt, cuộc đời nghèo khó. bất hạnh, không biết tương lai. và niềm vui khi con trai bà có vợ…

+ Từ những tương quan tương phản đó, nhà văn đã dày công miêu tả tâm lí nhân vật với những biểu hiện vô cùng phong phú để đi đến một khẳng định: cái đói, cái chết với những ám ảnh khủng khiếp mà nó gây ra. . Tôi không tìm hạnh phúc ở người biết sống nhân nghĩa. Anh Trang cũng biết lo cho mình mà còn biết lo cho vợ mới (mua / dầu hào). Bà Tú cả đời nghèo khổ nhưng rất mực yêu thương con cái, đối xử nhân hậu. Với những biểu hiện về tâm hồn và tính cách như vậy, sự sống chiến thắng cái chết có ý nghĩa vì nó gợi lên nhiều cảm xúc.

– Tương quan tương đồng trong ảnh hưởng tâm lý nhân vật: Trước khi Tràng đưa vợ về, cả khu chung cư cũng như tài sản riêng của anh đều chìm trong đói khát: lũ trẻ ủ rũ, anh Tràng “khò khè nhiều hơn” , mệt mỏi nặng nề. Khi Tràng đưa vợ về, cả khu phố như bừng dậy một sức sống mới, mọi thứ dường như đã thay đổi hoàn toàn, ngay cả cái đói cũng nổi lên nhường chỗ cho sự sống và niềm vui: hàng xóm bàn tán xôn xao. xôn xao, lũ trẻ xúm quanh Tràng, Tràng khác thường và đặc biệt. nghiêm túc, chững chạc Chắc hẳn người phụ nữ nào cũng trở nên dịu dàng, đoan trang, tuy không mấy hạnh phúc nhưng cảnh gia đình yên ấm đã khiến bà Sau khi về làm dâu thực sự, bà cụ Tú sau bao lo toan, nỗi buồn vô tận chuyển sang niềm vui và nhanh chóng đứng dậy. Dù cái đói, cái chết vẫn bủa vây, dày vò trong tháng ngày đói lạnh. nhưng sự sống, niềm vui đã trở lại trong cuộc đời mỗi người.

– Như vậy, khi xây dựng vấn đề cần giải quyết, nhà văn ít khai thác các mối quan hệ đời sống bên ngoài mà chủ yếu đi sâu vào miêu tả diễn biến tâm lí. Vì vậy, tuy câu chuyện gợi lên cuộc sống bi đát của con người trong năm đói nhưng ấn tượng đậm nét mà nó tạo ra chính là ý nghĩa thiêng liêng của cuộc sống và tình người.

* Tổ chức điểm nhìn trần thuật:

Nhẹ nhàng tránh sự đơn điệu, hơi nhạt và cũng để tạo chiều sâu tâm lý cho lãng phí, Kim Lân đã rất khéo léo khi tổ chức điểm nhìn trần thuật: người kể có lúc đứng ngoài quan sát, kể và miêu tả khách quan, có lúc hóa thân vào nhân vật để hồi tưởng và kinh nghiệm. Câu chuyện trở nên đầy trữ tình và dịu dàng, khả năng gợi cảm cao nhất khi nhà văn nhập giọng người kể vào tiếng nói nội tâm của nhân vật biến lời tự sự thành lời tự sự bởi dòng suy nghĩ của nhân vật (đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ) đã miêu tả sâu sắc, tinh tế những trạng thái tâm lý và phản ứng tâm lý của nhân vật trước sự kiện.

*Ngôn ngữ truyện:

– Ngôn ngữ người kể: Có lúc tự nhiên, hóm hỉnh, hóm hỉnh (đoạn tả cảnh Tràng quen biết, đính hôn rồi thành vợ thành chồng), có lúc trang trọng, chân thật (đoạn văn). tả tâm trạng bà cụ Tứ) và nhìn chung đều giản dị mà vẫn rất gợi cảm, có những đoạn chân thành chứa chất thơ (đoạn tả cảm nghĩ của Tràng, đoạn tả tâm trạng bà cụ Tứ).

– Ngôn ngữ nhân vật: Đáng chú ý nhất là ngôn ngữ đối thoại: rút gọn, giản dị, đôi chỗ hơi thô và phù hợp với tính cách nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân vật, đó là ngôn ngữ vừa quen thuộc, hữu nghị, vừa thăm dò, vừa xa lạ vừa gần gũi.

* Phát hiện chi tiết:

Tác giả sử dụng nhiều chi tiết rất gợi để tạo không khí cho truyện (than thở, tiễn người chết, xác chết). Đặc biệt, có những chi tiết có sức phát hiện và sức biểu cảm lớn (Chàng Trương mua 2 hào dầu đưa cho vợ, Thắng tắt đèn, bữa cơm hôm đói…) Các chi tiết tạo nên sự cụ thể. tính năng động của vấn đề, làm nổi bật bản chất nhân văn ở con người.

*Cốt truyện:

Xoay quanh và bám sát sự kiện vợ Tràng nhưng không đơn điệu một chiều, người viết cố ý đảo ngược trình tự trần thuật để vừa dẫn dắt, giải thích, vừa bình luận để khai thác các khía cạnh của sự việc. .

1.3. Kết luận

– Ngòi bút linh hoạt, bố cục của Kim Lân đã giúp ông tạo nên trong truyện ngắn Vợ Đổi một tình tiết bất ngờ, kịch tính: Lạ lùng, khó hiểu và cảm động. Cách xử lý đó được phát triển một cách tài tình và sâu sắc đã thể hiện nội dung phong phú của tác phẩm.

– Cần khẳng định: Nhân vật được xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ là nghệ thuật mà còn là khả năng của Kim Lân trong việc phát hiện và đồng cảm sâu sắc với số phận, cảnh ngộ của con người.

Bài phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt hay nhất

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ Nhặt là đã xây dựng một cốt truyện xử lý truyện độc đáo, hấp dẫn”. Có thể nói đây chính là mấu chốt thành công của tác phẩm.

Là một cây bút vàng viết truyện ngắn, Kim Lân viết về người nông dân và cuộc sống ở nông thôn bằng tình cảm và tâm hồn của một người là “những đứa con” của đồng ruộng. Anh Hai, chị Tư, anh Tràng… xuất hiện trong tác phẩm có tâm hồn thật thà, thẳng thắn và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Được sáng tác ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công và sau này được viết lại trong phần Sau hòa bình lập lại (1954), truyện ngắn có trước tiểu thuyết “Làng có người ở”, là câu chuyện về cuộc đời của những con người không nơi nương tựa. Vùng quê chính thức ở vùng đất nơi anh ta sinh ra. Trên bối cảnh lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào một tình tiết độc hại vừa buồn vừa vui, vừa hạnh phúc nhưng cũng đầy lo lắng.

Nghệ thuật xây dựng tình tiết là đặt nhân vật vào những bối cảnh nhất định, tạo môi trường để nhân vật hoạt động, qua đó bộc lộ tính cách. Trong tác phẩm, Kim Lân đã tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình tiết một anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu xí, có nguy cơ mất vợ, bỗng trở về có một người vợ, nhưng là một con bù nhìn, đi theo không chỉ là một bài hát ngớ ngẩn và bát quái. Tình trạng của anh ta kéo theo một loạt các điều kiện khác nhau mà không làm mất hứng thú.

Mối tình này đã gây ngạc nhiên lớn cho bà con lối xóm, cho mẹ Tràng và cả cho chính bản thân Tràng, bởi hai lẽ: Ai mà ngờ được một người nghèo, xấu xí, dù có vẻ hơi bé tí lại là dân ngụ cư như Tràng lại có thể lấy được vợ. Hơn nữa, trong bối cảnh lúc bấy giờ, khi nạn đói hoành hành, khắp nơi người ta xua đuổi những con người “xám như những bóng ma, nằm ườn ra quét chợ (…) Không khí mịt mù khói. mùi xác người”, một người như Tràng còn không phụng dưỡng được mẹ già chứ đừng nói đến một mớ hỗn độn. Bằng cách đó, sự kiện vô lý và không thể nhưng gây sốc vẫn tiếp tục diễn ra. Khi Tràng đưa người phụ nữ lạ mặt về nhà, cả khu phố ngơ ngác. Không thể là vợ Tràng, họ bắt đầu đồn đoán:

Ai đấy nhỉ?… Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

– Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

– Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.

– Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.

Niềm hạnh phúc của đồng loại tạm thời làm người ta quên đói trong giây lát. “Họ dường như hiểu gấp đôi. Khuôn mặt hốc hác của họ đột nhiên hiện ra. Có điều gì đó lạ lùng và mát mẻ như cuộc sống trong đêm muộn đầy khao khát của họ.” Nhưng rồi lại nghe. “Ôi trời! Giờ mảnh đất này còn mang lại món nợ đời. Bạn có biết liệu họ có thể nuôi nhau và sống qua điều này điều này không?”.

Từ đây, Kim Lân lôi cuốn người đọc vào những vấn đề trước đây rất thú vị như lời giải thích cho việc làm bù khú của vợ chồng Tràng, một vấn đề không hơn không kém. Trông vợ chỉ nhờ câu hát vu vơ khi đưa xe bò cho đỡ mệt:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”

Cái đói khiến người ta mất cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người phụ nữ lấy câu nói của Tràng như một cứu cánh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại, họ “thú nhận”: “Hôm đó trèo lên mất mặt”, không chịu xuống làm bát bánh xèo. Vì vậy, nên vợ nên chồng.

Có thể nói đây là một vấn đề rất bức xúc, không biết nên vui hay nên buồn, không biết nên mừng hay nên lo? Tâm trạng liên tục xuất hiện trong suy nghĩ đầy đủ của những người liên quan. Tràng “lúc đầu nghĩ: Hội cơm này ngay cả thân mình cũng không biết có nuôi nổi hay không, còn đò”. Nhưng rồi cũng đánh trống lảng. Cái cảm giác ấy cùng với những cảm xúc mới lạ khiến nó cứ như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà thứ tư là người từng trải, thấy con mình trở về với một người đàn bà xa lạ “nhìn người mẹ tội nghiệp, ông hiểu ra nhiều điều, vừa xót xa, vừa thương hại cho số phận con mình”. Cô hiểu cả hoàn cảnh của người phụ nữ, cũng như tình trạng khó khăn sắp xảy ra của cả gia đình. Lo lắng và hy vọng đan xen, “May mà qua được đoạn này, con trai cũng có vợ, yên bề gia thất, có khi giết chết con cũng phải khổ chứ sao phải lo. ?Nó có thể kết thúc?” Bản thân người phụ nữ sau những giây phút loay hoay kiếm cái gì ăn, theo người ta về nhà, hẳn lúc này cũng đang suy nghĩ rất nhiều. Thị trở về với dáng vẻ bẽn lẽn, thẹn thùng, rụt rè “cúi mặt xuống, tay mân mê vạt áo rách”.

Đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu xa của truyện. Qua tình huống đan xen giữa nụ cười và nước mắt đó, truyện kể lên án gay gắt chống lại bọn thực dân phong kiến phát xít và bè lũ tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, cầm đầu là bọn lừa đảo. đảo đến chết, dẫn đến tréo ngoe, rẻ rúng giá trị con người: người ta có thể nhặt vợ chỉ bằng bốn bát bánh đúc.

Tình yêu ấy cũng chính là môi trường để nhân vật bộc lộ những nét tính cách cũng như đời sống tinh thần của mình. Bề ngoài, anh là một thanh niên giản dị, hiền lành, chỉ chăm chỉ làm việc và có đời sống nội tâm hơi giản dị. Bà Tư mang trong mình sự từng trải, suy tính trước sau. Tràng “nhặt” được vợ, nàng vừa mừng vừa lo. Cô hiểu mớ hỗn độn mà cô và những người xung quanh đang trải qua, hiểu vị trí của cư dân trong quan điểm của người khác, hiểu tình huống kỳ lạ và táo bạo của con trai cô. Hơn nữa, chị cũng thấu hiểu và đồng cảm với hành động nghĩa hiệp của người phụ nữ “Người ta gặp cảnh khó khăn, đói khổ thế này mới bế con về”. Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, chính cô là người gợi mở về một tương lai tươi sáng, gieo vào lòng đôi trẻ niềm hy vọng. Còn với cô “vợ hờ”, tính cách của cô thay đổi đến bất ngờ: từ một cô bồ nhí, đanh đá trở thành một chị đảm đang, đảm đang, đảm đang, hiền lành, biết điều. cho cuộc sống gia đình.

Thông qua cách giải quyết truyện độc đáo, Kim Lân cũng muốn nói lên khát vọng của con người là có thể vượt lên hoàn cảnh để được sống và có được hạnh phúc. Người lao động dù trong hoàn cảnh éo le đến đâu, dù cận kề cái chết vẫn luôn khao khát ánh sáng, tin tưởng vào cuộc sống và tương lai. Giá trị nhân bản của tác phẩm là ở đó. Câu chuyện kết thúc với ánh sáng báo hiệu điều gì đó tốt đẹp hơn đang đến. Tràng “chợt nhận ra quanh mình có cái gì mới lạ, vừa thay đổi…” và anh khấp khởi hy vọng: “Khánh đã có gia đình, vợ chồng anh sẽ sinh con đẻ cái. Ngôi nhà như một mái ấm che chở. từ mưa nắng. Một nguồn vui, sự phấn khởi tràn ngập trong lòng. Giờ tôi mới thấy bổn phận làm người, bổn phận là lo cho vợ con sau này”. Người mẹ già cũng “nhẹ nhàng, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”, khuôn mặt ủ rũ của bà “sáng bừng lên”. Và tất nhiên, người ta phải nói nhiều nhất về sự thay đổi của “nàng dâu”, giờ đây trong vai vợ hiền dâu thảo. Hình ảnh đám người đi thám hiểm vừa mới bắt đầu đã gieo vào lòng Tràng đầy hình ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn sẽ xảy ra những chuyện nhẹ nhàng.

Xây dựng một tình cảm đặc biệt trong “Vợ Nhặt”, một lần nữa Kim Lân đã chứng tỏ cái tâm và cái tài của mình với tư cách là một nhà văn suốt đời đi về với “đất”, về với “người”, về với “dân tộc”. “hậu nguyên thủy” của đời sống nông thôn.

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc trong thủ pháp xây dựng tình tiết lạnh lùng. Điều này đã phần nào góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm.

Bài mẫu phân tích giá trị nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt

Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào

Bài làm

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa dề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống ép le, trở trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.

Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.

Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.

Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!

Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình… Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.

Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng… Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.

Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chổng Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.

Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !

Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.

Bài phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt ý nghĩa nhất

Mỗi tác phẩm văn học khi được thu nhỏ lại đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khác nhau. Tiếng vọng của anh ta có thể là một nhân vật, một chi tiết hay một sự kiện. Đến với truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, điều ấn tượng nhất trong lòng người đọc chính là tình huống truyện độc đáo. Nghệ thuật đặt vấn đề và giải truyện của Kim Lân đã góp phần to lớn làm nên thành công của tác phẩm và tên tuổi nhà văn Kim Lân.

Tình trạng của câu chuyện là gì? Cốt truyện tình ca được hiểu là sự kiện xảy ra trong truyện, là “thời gian” mà Nguyễn Minh Châu cho là “chứa đựng những vết xước của kiếp người”. Từ tình huống truyện, người đọc thấy rõ hơn mối quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh, từ đó thể hiện tư duy tưởng tượng của toàn bộ tác phẩm. Trạng thái của kiệt tác Vợ nhặt là một trạng thái lạ, độc đáo, oi bức và rạng ngời.

Đầu tiên, người đánh giá ở đây là một tình huống vô cùng độc đáo. Chú Tràng, một người hàng xóm xấu xí, chất phác, lấy được vợ trong nạn đói lịch sử.

Tràng chưa vợ nhưng “kén vợ”. Trong một lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng gặp Thị, chỉ với bánh chưng bánh dày, Thị đồng ý theo Tràng về làm vợ. Trong mắt hàng xóm, người như Trang không lấy được chồng. Vì lúc này người ta luôn coi cư dân là tầng lớp dưới đáy bị xã hội coi thường và coi thường, coi người này là người ở thì cũng sẽ bị người khác coi thường. Hơn nữa, Tràng là người xấu xí, nghèo khổ. Giữa lúc khó khăn ấy, đã khó nuôi gia đình, lại còn vướng vào chuyện vợ con.

Nhưng, trong hoàn cảnh éo le ấy, người vợ đáng thương hơn là bị coi thường, khinh bỉ. Vợ là người phải được cưới hỏi đàng hoàng, hoàng hậu đàng hoàng, đầy đủ lễ vật, nghi thức đón dâu. Bởi vậy, người vợ mà Tràng cưới hôm nay thật rẻ mạt, chỉ bằng một câu nói đùa và bát bánh chưng ngày Tết. Tình yêu của vợ và bất hạnh, niềm vui vu vơ nhưng đầy bi kịch. Mặc dù nó không có vẻ phi logic, nhưng nó có ý nghĩa hoàn hảo. Chăm sóc vợ là việc làm vào thời điểm đó, nạn đói hoành hành, nếu không có bánh mì, sẽ không có người phụ nữ nào sẵn sàng lấy một người đàn ông như anh. Hành động ôm vợ tuy chỉ là hành động nhất thời nhưng cũng thể hiện sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau của anh với Thị, thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người trong nạn đói năm ấy.

Bên cạnh đó, vấn đề rác thải cũng là một thực trạng dễ bùng phát. Trong một gia đình bình thường, việc con trai trưởng lập gia đình thường mang lại niềm vui cho người cha và người mẹ. Nhưng tiếc thay, anh ta đã có vợ, khiến bà cụ Tứ vừa mừng vừa tủi, hàng xóm láng giềng chẳng thèm ngó ngàng gì thêm. Ai chỉ nghĩ rằng dưới cái bóng ảm đạm đang bao trùm cả vùng này, “từ bao giờ cái đói đến làng này”, việc lấy vợ càng làm cho cuộc sống khó khăn hơn? Bà Tư còn nghĩ đến điều tệ hại hơn: “Chắc chúng nó lấy nhau rồi, đói khát thế này có nuôi được không?”. Bà mừng vì con trai sắp lấy vợ nhưng lúc này bà lại lo lắng cho tương lai của chồng và các con. Bản thân Trang từng ngao ngán khi nghĩ đến niềm hạnh phúc nhỏ nhoi vừa được nhen nhóm: “Không biết cơm này có đủ nuôi thân không, còn váy bò?”. Xấu hổ cũng giống như niềm vui. Có lẽ ai cũng nhìn ra, người đàn bà chấp nhận Tràng vì muốn qua khỏi cơn đói, bám vào chiếc phao cứu sinh mong được sống. Tất cả bọn họ đều có thể bày tỏ sự thương cảm. Nó len lỏi vào suy nghĩ của mỗi nhân vật và bao trùm cả đêm tân hôn. Đêm tân hôn của đôi tân hôn Gió từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu leo lét và tiếng thở dài của người chết vang vọng khu nhà ở.

Từ những giá trị đó chúng ta mới cảm nhận được giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc. Cái mớ đó đã góp phần phơi bày số phận của những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Họ phải chịu những bất công từ cuộc đời. Vì nghèo nên Tràng không lấy được vợ, phải chờ cơ hội “trời cho” khi thân phận con người trở nên rẻ rúng. Cơ hội đó không phải là một thời sáng sủa tươi đẹp hơn mà chính là nạn đói lịch sử, bi kịch đau thương của bao người. Hoàn cảnh đó khiến người phụ nữ tự nguyện từ bỏ phẩm giá, giá trị của mình để đi theo một người đàn ông xa lạ làm vợ.

Ngoài giá trị hiện thực, vấn đề còn thể hiện giá trị nhân đạo khiến người đọc phải suy nghĩ nhiều. Từ cảm xúc lưu luyến của mình, Kim Lân gợi lên trong lòng mỗi người niềm tiếc nuối xa xứ và niềm thương cảm cho những số phận nông dân nghèo khó. Đồng thời cũng góp phần chăm lo những phẩm chất đáng quý của người nông dân giữa cảnh đói khát. Trong niềm khao khát ấy, mẹ con bà cụ Tư Bò cũng không khá hơn, sẵn sàng dang rộng vòng tay đón một người khách lạ. Lời mời “anh đi cùng em chất hàng lên xe về đi” của Tràng nghe như đùa nhưng thực chất lại có ý nghĩa như một cơ hội nghiên cứu đang cháy bỏng từ bờ vực của sự chết đói. đến hạnh phúc gia đình. Người đàn ông có vẻ ngây thơ nhưng vẫn quan tâm, lo lắng và quan tâm đến hạnh phúc của tôi. Dù chỉ là người được vợ cưng chiều nhưng anh vẫn đưa Thi đi nhà hàng ăn uống thật hậu hĩnh, mua cho Thi cái giỏ, cái ví và ít đồ lặt vặt, mua dầu thắp đèn đêm tân hôn…  Tràng còn giới thiệu bản thân đàng hoàng với mẹ bạn để bà bớt xấu hổ.

Kim Lân qua việc khắc họa các nhân vật trong cốt truyện tự sự cũng thể hiện niềm tin vào tương lai cuộc đời của họ. Đây là giá trị nhân đạo mới của ông. Điều này được thể hiện rõ trong đoạn kết khi nghe vợ kể chuyện những người nông dân ở Thái Nguyên, Bắc Giang phát hiện ra giọt mồ hôi chung của người nghèo và nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp.

Có thể nói, truyện Vợ nhặt mang nhiều giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng của ngòi bút Kim Lân. Một tình huống éo le cho vợ vừa lạ lùng, vừa éo le nhưng lại thể hiện cái nhìn niềm tin của người nông dân vào sự thay đổi của số phận. Nó quan tâm đến nhân cách con người ngay cả trong những năm tháng khó khăn, trong nạn đói lịch sử năm 1945. Với những giá trị sâu sắc ấy, người đọc càng cảm thông hơn với tư tưởng nhân đạo của Kim Lân. Đã nhiều năm trôi qua, “Vợ nhặt” vẫn là một tác phẩm tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam.

Hãy phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt

Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho”. Càng mỉa mai hơn khi cơ hội ấy chính là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của biết bao con người chết đói khiến cho người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị theo không anh về làm vợ

Bài làm

Sự thăng hoa của tác phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến việc sáng tạo ra tình huống truyện độc đáo. Kim Lân là một nhà văn nông thôn chuyên viết về những chuyện nông thôn như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Chuyện ông già trên núi Côi Kê….Trong đó, “Vợ nhặt” là tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi nhà văn Kim Lân với những nghệ thuật sáng tạo độc đáo: đó là tình huống truyện.

Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là “cái khoảnh khắc chứa đựng cả đời người” (Nguyễn Minh Châu). Qua tình huống truyện, chúng ta có thể thấy rõ mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh, góp phần nổi bật tư tưởng của tác phẩm. Tình huống truyện “Vợ nhặt” vừa là một tình huống lạ, độc đáo lại vừa là một tình huống oái oăm, trớ trêu.

Tình huống truyện trong “Vợ nhặt” vô cùng độc đáo: Đó là việc anh Tràng lấy được vợ trong nạn đói lịch sử, trong những ngày mà người chết đầy đường, đoàn người dắt díu nhau đi tìm cái ăn, xóm ngụ cư đêm dêm vang lên trong tiếng hờ khóc người chết.

Tình huống ấy trước hết được coi là tình huống lạ, độc đáo. Ta thấy hành động lấy được vợ của Tràng vô cùng khác thường mà phải gọi là “nhặt vợ” thì đúng hơn. Dưới mắt những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện không tưởng. Quan niệm dân gian trước giờ luôn xem nhẹ việc lấy chồng ngụ cư – vốn là tầng lớp dưới đáy thường bị xã hội xem thường, rẻ khinh. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con. Nhưng đáng thương hơn cả là hành động nhặt vợ ấy. Vợ – đáng lẽ hải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, phải đầy đủ mâm cỗ rước về nhưng nay lại rẻ rúng bằng một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng nhặt được vợ trong một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Mặc dù lạ nhưng việc Tràng lấy được vợ là điều vô cùng hợp lí. Người đọc toàn hoàn bằng lòng với việc xảy ra. Anh Tràng lấy vợ lúc này là đúng bởi vì nếu không phải năm đói thì chắc chẳng có người đàn bà nào chịu lấy anh. Hơn nữa, hành động nhặt vợ kia còn thể hiện được sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của những con người năm đói.

Bên cạnh đó, tình huống truyện còn thể được sự éo le, oái oăm, trớ trêu. Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì anh Tràng lấy vợ là niềm vui cho bà mẹ và xóm ngụ cư. Vậy mà éo le thay, việc anh Tràng lấy vợ không biết là nên vui hay nên buồn. Chính Tràng ban đầu cũng không ngờ được việc mình lấy được vợ. Chỉ bốn bát bánh đúc và một câu bông đùa – hôn nhân chưa bao giờ tưởng có thể đơn giản được như thế. Dưới con mắt của người dân xóm ngụ cư, anh Tràng lấy vợ khiến người ta tò mò, ngạc nhiên, lo sợ cho anh. Tình hình hiện tại biết bao u ám “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào” thế nhưng Tràng vẫn đèo bòng chuyện vợ con. Với bà cụ Tứ, bà còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Với Tràng, anh đã từng cảm thấy hơi chợn khi nghĩ về niềm hạnh phúc bé nhỏ vừa tìm được “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng?” Với thị – người vợ vừa được nhặt về, nỗi tủi hổ dường như lấn át cả niềm vui. Nói trắng ra, thị lấy Tràng cũng vì muốn sống sót qua cơn đói, muốn tìm một chiếc phao cứu sinh. Sự éo le ấy còn lan tỏa ra khung cảnh xung quanh. Đêm tân hôn của hai người khốn khổ diễn ra trong cái gió lồng lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.

Từ những điều đã phân tích trên, ta thấy tình Tràng lấy được vợ mang lại giá trị hiện thực sâu sắc. Trước nhất, nó phơi bày số phận của người nông dân trước cách mạng tháng tám. Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho”. Càng mỉa mai hơn khi cơ hội ấy chính là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của biết bao con người chết đói khiến cho người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị theo không anh về làm vợ. Con người hiện lên như cái rơm, cái rác bị vứt ngoài lề cuộc sống. Trong khung cảnh đói khát ấy, anh lấy vợ mà chẳng ai mừng cho, bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới thật thảm hại, lấy vợ trong nỗi xót xa, cay đắng khôn cùng.

Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng là điều khiến người đọc phải suy nghĩ trước sau. Kim Lân đã gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa khôn nguôi, qua đó gợi cho người đọc sự cảm thông về số phận người dân nghèo. Đồng thời, góp phần phát hiện phẩm chất đáng quí của người nông dân ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói, mẹ con anh đã biết cưu mang một người xa lạ. Việc Tràng cưới vợ trước xuất phát từ bản chất xót thương, muốn cứu vớt thị. Lời mời “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” có vẻ như đùa nhưng thực ra là cơ hội dễ dẫn thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về đến hạnh phúc gia đình. Tràng lo lắng, quan tâm, trân trọng từng hạnh phúc bình dị, đơn sơ: đưa chị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho chị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Tràng còn âm thầm theo dõi thái độ của thị và cảm thấy lo lắng trước sự lặng lẽ: “quái sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng giới thiệu thị với mẹ một cách đàng hoàng để thị vơi bớt tủi hổ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau”. Đặc biệt, Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật còn thể hiện niềm tin vào sự đổi đời. Đây là nét nhân đạo mới mẻ ở ông. Nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo khiến Tràng chợt nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp. Phải chăng anh thấy tiếc vì không tham gia đoàn biểu tình ấy? Ở những con người năm đói là sự vươn lên mạnh mẽ. Cái đói không những không đánh gục ngã được họ mà làm cho họ tìm thấy niềm tin ở tương lai.

Tóm lại, tính huống Tràng lấy vợ thực sự mang lại cái nhìn tin tưởng của người đọc về sự thay đổi của số phận người nông dân. Chính vì vậy, qua “Vợ nhặt”, chúng ta càng hiểu hơn về tư tưởng của Kim Lân: “Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người dù đói thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ”.

Hy vọng bài viết do review.edu.vn chia sẻ sẽ cung cấp cho quý bạn đọc những kiến thức hữu ích. Trân trọng cảm ơn!